Đôi điều về bẩm sinh và nuôi dưỡng trong giáo dục trẻ mỏ
Giáo dục con cái là thiên chức, nghĩa vụ, song song chứa đựng cả niềm vui và hy vọng của các bậc làm cha làm mẹ, đây là một quá trình dai sức dài lâu từ khi trẻ sơ sinh cho tới lúc trưởng thành. cha mẹ là người thầy trước nhất của trẻ, còn con nít là tấm gương phản ánh của cha mẹ. Con cái trưởng thành, thành đạt là niềm vui của những người làm cha làm mẹ.
Rất nhiều quan niệm, rằng trẻ trưởng thành tốt là vì có thiên bẩm, có năng khiếu, chứ không phải do cha mẹ không biết dạy dỗ.Ngay trong trong tâm lý học hiện vẫn đang tranh luận khá quyết liệt giữa bẩm sinh và nuôi dưỡng.
Bẩm sinh (Nature) bao gồm tất cả các nhân tố về gien và di truyền, cho biết ta là ai, từ các đặc điểm thân thể, ngoại hình cho đến đặc điểm tính cách. Còn nuôi dưỡng (Nurture) là sự tổng hợp tất các nhân tố về môi trường sống, bao gồm các trải nghiệm thời thơ, được nuôi nấng thế nào, mối quan hệ từng lớp, và văn hóa xung quanh ra sao.
Một số triết nhân như Plato và Descartes cho rằng mỗi người mang theo một số đặc tính bẩm sinh, xuất hiện một cách thiên nhiên chứ không phụ thuộc vào môi trường sống. Giới tự nhiên học cũng đồng quan điểm này và cho rằng đây là kết quả của di truyền. Những người ủng hộ ý kiến trên tin rằng, quơ các đặc tính và hành vi của con người là do tiến hóa mà nên.
Các đặc tính của bố mẹ được di truyền đến đời con, tác động và khiến mỗi người trở nên một cá thể đặc biệt, độc nhất vô nhị.
Người Do Thái quan niệm, tuổi thơ quyết định tương lai và nếu được giáo dục tốt có thể trở nên người kiệt xuất
trái lại, có người như nhà tư tưởng nức tiếng người Anh John Locke lại coi tâm khảm con người là tabula rasa (tấm bảng trắng hay tờ giấy trắng), hoàn toàn chưa có nội dung. Theo đó, cả thảy những gì thuộc về con người và kiến thức mà chúng ta sử dụng đều do trải nghiệm mà có. Ý kiến này ăn nhập với quan điểm của những người theo chủ nghĩa kinh nghiệm, rằng tuốt hay phần lớn các đặc tính này đều do học tập hay giáo dục mà có.
Thuyết hành vi là một thí dụ tiêu biểu có cỗi rễ từ thuyết kinh nghiệm. Người theo thuyết hành vi tin rằng tuốt tuột các hành động và hành vi đều là kết quả của điều kiện hóa. Nhà khoa học John B. Watson người Mỹ cho rằng, con người có thể học tập để làm một thứ, trở thành một ai đó mà không phụ thuộc vào gien hay di truyền. Ngay cả những khía cạnh như tuổi thọ và chiều cao phần lớn là do di truyền, nhưng chúng vẫn chịu ảnh hưởng từ môi trường và lối sống.
Ví dụ, một đứa trẻ được sinh ra từ một gia đình toàn người cao sẽ có khả năng thừa hưởng gien cao này. Tuy nhiên, nếu lớn lên trong một môi trường thiếu thốn, không đủ dinh dưỡng hợp, đứa trẻ trên sẽ chẳng bao giờ đạt được chiều cao như khi được nuôi dưỡng trong một môi trường phong túc.
Những người Do Thái trông rằng một đứa trẻ thường ngày nếu được giáo dục tốt, cũng có thể trở thành người kiệt xuất.Điều này xuất hành từ danh ngôn bất hủ, đại ý, tuổi thơ quyết định mai sau. Chính điều này mà người Do Thái cho rằng việc giáo dục rất quan yếu, không cần phải tranh biện bởi một đứa trẻ thông thường nếu được giáo dục đúng cách sẽ trở nên một công dân tài tình, hữu ích cho tầng lớp.
Nhà khoa học vĩ đại người Do Thái Einstein là một thí dụ, khi còn nhỏ ông không phải là một đứa trẻ thông minh, hay có tố chất thiên tư của một anh tài. Đến 4 tuổi ông mới biết nói, hồi học tiểu học vì kết quả học tập không tốt không theo kịp các bạn cùng trang lứa nên kiền từng đề nghị Einstein nghỉ học. Nhưng nhờ những bài học về âm nhạc và toán học do mẹ và chú của ông hướng dẫn, đặc biệt là năng lực tư duy hình tượng đã giúp Einstein trở thành nhà khoa học vĩ đại.
5 nghệ thuật giáo dục con cái đã được ứng dụng thành công
1. Kỷ luật hăng hái
Thay vì tụ họp vào hình phạt, bố mẹ nên ứng dụng kỷ luật mà theo giới tâm lý đó là kỷ luật tích cực hay nghiêm khắc (Positive discipline) dựa trên lời khen ngợi và khuyến khích. Nên dạy trẻ kỹ năng giải quyết vấn đề và vào cuộc cùng trẻ con phát triển các giải pháp hiệp với độ tuổi của chúng. Kỷ luật hăng hái rất đa dạng, dùng các cuộc họp gia đình và trao quyền giải quyết các vấn đề để khơi dậy hành vi và khả năng của trẻ.
thí dụ, một đứa trẻ 6 tuổi không chịu làm bài tập về nhà, phụ huynh dùng kỷ luật này, ngồi xuống cùng trẻ và nói: “Cha hoặc mẹ được biết cô giáo muốn con hoàn tất bài toán này ngay trong tối nay dù rằng con chưa muốn làm. Chúng ta sẽ làm gì để hoàn thành bài tập này nhỉ, làm nhanh con sẽ được cô giáo ngợi khen”.
Với lời khích lệ thực bụng, hợp lý sẽ khêu gợi và khuyến khích trẻ ngồi vào bàn học và bài tập về nhà sẽ được hoàn tất. Khi được khen trẻ hưng phấn và tạo ra thói quen tích cực.
2. Kỷ luật nhẹ nhàng
Kỷ luật nhẹ nhõm (Gentle Discipline) theo phương châm “nhẹ lời chỉ bảo nặng lời khuyên răn”, hiểu con để có phương pháp phù hợp, ngăn chặn, và lôi trẻ ra khỏi hành vi xấu.
Trẻ dễ vấp phải tật xấu, nhưng kỷ luật nhẹ nhàng không phải là hổ hang. Thay vào đó, bác mẹ nên sử dụng nghệ thuật khôi hài, khiến trẻ mất tụ hợp vào thói xấu mà chúng đang theo đuổi. trung tâm của kỷ luật nhẹ nhàng là quản lý cảm xúc trong khi giải quyết hành vi sai lầm của trẻ.
Ví dụ, một đứa trẻ 6 tuổi không chịu làm bài tập ở nhà, phụ huynh dùng kỷ luật nhẹ nhõm hí hước khi giao tiếp, chẳng hạn: “ Con có thể viết một bài văn ngắn cho cô giáo và giải thích lý do tại sao con không muốn làm bài toán ở nhà vào buổi tối?”. Một khi nút thắt đã được giải tỏa, các bậc phụ huynh có thể ngồi xuống và mang bài toán ra cùng trẻ để bàn bạc và giúp trẻ hoàn tất ngay trong đêm trước khi bước vào buổi học mới.
3. Kỷ luật dựa trên ranh giới
Kỷ luật dựa trên ranh giới (Boundary-based discipline) tụ hợp vào thiết lập các giới hạn và làm cho các lệ luật trở thành mạch lạc hơn. Sau đó, trẻ em sẽ đưa ra các tuyển lựa và có kết quả rõ ràng chứng minh cho hành vi sai trái của mình, kết quả mang tính logic hoặc tự nhiên mà chính bản thân trẻ cũng nhận ra.
Ví dụ, một đứa trẻ 6 tuổi không chịu làm bài tập về nhà. Trường hợp này, phụ huynh sử dụng kỷ luật dựa trên ranh giới nói trên để đặt ra giới hạn và làm cho hiệu quả trở thành rõ ràng hơn, bằng cách nói: “Con có thể sử dụng bất kỳ thiết bị điện tử nào vào tối nay cho đến khi bài tập ở nhà của con hoàn tất xong”.
Kỷ luật nhẹ nhõm
4. uốn hành vi
uốn hay chỉnh sửa hành vi (Behavior Modification) tụ hợp vào các kết quả tích cực lẫn thụ động. Hành vi tốt được củng cố bằng lời khen hoặc phần thưởng, Ngược lại hành vi chưa tốt sẽ không bị bơ, theo kiểu bỏ qua đặc quyền của trẻ.
tỉ dụ, một đứa trẻ 6 tuổi không chịu làm bài tập ở nhà, phụ huynh có thể sử dụng nghệ thuật chỉnh sửa hành vi nói trên để nhắc trẻ phần thưởng bất kỳ đã được hứa, bằng cách nói: “ Con nên nhớ, khi hoàn tất bài tập ở nhà, con có thể dùng máy tính trong 30 phút”.
Lời khen sẽ khiến trẻ hứng thú và tuân thủ, nhưng cũng cần phải cương quyết khi trẻ phản đối hoặc không làm theo lời khuyên của bố mẹ.
5. Luyện xúc cảm cho trẻ
Luyện xúc cảm (Emotion coaching) là nghệ thuật thứ 5, tập trung huyến luyện về xúc cảm.Khi trẻ hiểu được cảm xúc của chúng, chúng có thể tả bằng lời nói thay vì hành động. con trẻ được dạy để có xúc cảm ổn, còn cha mẹ đưa ra nghệ thuật hợp để giúp trẻ giải quyết cảm xúc của chung.
Ví dụ, một đứa trẻ 6 tuổi không chịu làm bài tập ở, phụ huynh có thể dùng thủ thuật luyện cảm xúc, gắng giúp trẻ xác định xúc cảm, bằng cách nói: “ Cha (mẹ) biết điều đó làm con buồn vì con không còn thời kì rỗi để chơi đêm nay. Toán học đôi khi rất khó, nó có thể khiến con nản lòng khi con không biết cách giải hoặc khi phải mất một thời kì dài. Con hãy dành vài phút để vẽ một bức tranh về xúc cảm của mình khi con làm bài tập toán ở nhà”.
DS. TRANG NHUNG
( Theo VWF/VWM- 7/2019 )