Một học trò có thể là người có hành vi bắt nạt, là nạn nhân của bắt nạt hoặc cả hai. đe học trò là một dạng của bạo lực học đường, có thể gây ra tổn thương về mặt thể chất, ý thức và tầng lớp, thậm chí là tử vong, và đã trở thành một vấn đề y tế công cộng được quan tâm trên toàn cầu cũng như ở Việt Nam.
Trên thế giới, mỗi năm có 6 triệu trẻ trai và 4 triệu trẻ gái có can dự trực tiếp đến bạo lực học đường, trên 3,2 triệu học trò là nạn nhân của nạt mỗi năm. Tại Hoa Kỳ, có khoảng 28% học trò từ 12 - 18 tuổi bị doạ tại trường, trong đó 18% học sinh bị xúc phạm, thuộc lòng, 18% là nạn nhân của những tin đồn, 5% bị đe dọa và 3% học sinh bị bắt làm những điều mà họ không muốn.
Một số nước có thiên hướng giảm về tỉ lệ bị bắt nạt và có hành vi bắt nạt người khác như Đan Mạch, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Anh và Nauy. Bên cạnh đó, một số nước như Pháp, Bỉ, Hà Lan có tỉ lệ bị doạ vẫn gia tăng ở cả hai giới. Theo mỏng của tổ chức Plan International (PI), khảo sát trên 5 nhà nước châu Á cho thấy học trò 12 đến 17 tuổi bị ăn hiếp trong 6 tháng qua nao núng trong khoảng 28% đến 75% với các hình thức bắt nạt thể chất, doạ tinh thần và lạm dụng dục tình, trong đó, tỉ lệ bị doạ ở Việt Nam là 71%.
Ảnh minh họa
Tại Việt Nam, trong thời kì gần đây học trò bị doạ như hăm dọa, đánh đập được chia sẻ phổ thông trên các trang mạng tầng lớp. Hành vi bắt nạt trong độ tuổi đi học can hệ đến các vấn đề như thành tích học tập kém, hút thuốc lá và thiên hướng lạm dụng rượu tăng, khả năng kiểm soát cảm xúc kém, có nguy cơ tự vẫn tiềm ẩn.
Có mối hệ trọng giữa học trò bị ăn hiếp với các nguyên tố:
- Đặc điểm cá nhân: hạnh kiểm, học lực, giới tính và khối lớp của học trò
- Gia đình: nghề, học vấn, tình trạng hôn nhân của bố mẹ, kinh tế gia đình, học trò sống chung với ai, mức độ quan tâm của gia đình, mức độ học trò chứng kiến bạo hành gia đình và chừng độ bị người nhà la mắng, đánh đập.
- Môi trường sống: chừng độ đánh nhau, cãi nhau tại nơi sinh sống và bạc xã hội.
- Nhà trường: mối quan hệ với nghiêm phụ, học trò sống cô lập và chứng kiến doạ tại dài.
Theo một nghiên cứu trên 248 học trò trung học cơ sở tại tỉnh Phú Yên, tỉ lệ học sinh bị đe là 37,9%. Những nguyên tố liên can đến bị ăn hiếp ở học sinh là học lực, hạnh kiểm, khối lớp, kinh tế gia đình, tình trạng đánh nhau/cãi nhau và xảy ra các tệ từng lớp tại khu vực sống, có chứng kiến ăn hiếp trong trường học và mối quan hệ không tốt với thầy cô. Trong đó 3 nhân tố gồm học lực, kinh tế gia đình và tình trạng đánh nhau hoặc cãi nhau tại khu vực sống cần được chú trọng.
Trong nghiên cứu trên, phần lớn học trò nhận được sự quan tâm từ gia đình, trong đó 64,5% cho là rất quan tâm và 31,1% là quan tâm, có 0,8% cho rằng không được gia đình quan hoài. Trong 12 tháng qua, phần lớn học trò không chứng kiến bạo lực gia đình (60,1%), nhưng có tới 51,6% học sinh đáp đã bị người nhà la mắng đánh đập, trong đó 6,8% học sinh bị la mắng, đánh đập với chừng độ thẳng tắp. Hơn 50% học sinh sống trong khu vực có xảy ra đánh nhau hoặc cãi nhau, với mức độ đôi khi là 43,1% và thẳng tắp là 8,9%. Một phần nhỏ học trò sống trong khu vực có các tệ lậu xã hội như cờ bạc, trộm cắp, cướp giật…
Một điều đặc biệt, những học trò từ khối lớp 7 đến khối lớp 9 trong nghiên cứu này có tỉ lệ bị nạt cao hơn so với học sinh lớp 6.học sinh có học lực từ khá trở xuống có tỉ lệ bị bắt nạt cao hơn so với học sinh có học lực giỏi.học trò có hạnh kiểm từ khá trở xuống có tỉ lệ bị nạt cao hơn so với học sinh có hạnh kiểm tốt. Theo định nghĩa, chọc được thực hành một cách thân thiện, vui vẻ không được xem là doạ, có thể học sinh đang trong độ tuổi có sự biến chuyển về mặt tâm lý, những học sinh ở khối lớp lớn hơn dễ mẫn cảm hơn với sự thuộc lòng của bạn bè và cho rằng đó là hành vi bắt nạt đối với mình.
Những học sinh có học lực kém thường bị bạn bè thọc gây khó chịu hoặc ít được chú ý gây cảm giác bị xa lánh, đó được xem là những hình thức bắt nạt. Tâm lý chung của các bậc phụ huynh là không muốn cho con em mình chơi với những trẻ sống ở môi trường sống phức tạp, có lẽ thành ra mà những học sinh sống ở nơi thẳng tuột xảy ra đánh nhau/cãi nhau thường bị nạt hơn. Bên cạnh đó, với những học trò có điều kiện kinh tế gia đình khá giả, thứ nhất, có thể cách xử sự của các em chưa phù hợp; thứ hai, các em thường mang những đồ vật có giá trị đến lớp, vô hình chung những điều đó đã khiến các em trở nên nạn nhân của bắt nạt trong dài.
dù rằng mối liên can giữa học sinh bị nạt với các nguyên tố khác về đặc điểm nhà trường là chưa rõ ràng, song vẫn cần sự quan hoài nhiều hơn từ phía nhà trường.Việc học sinh nhận định rằng cha đối không công bằng có thể nảy sự ganh tị, dẫn đến những ứng xử không ăn nhập giữa các học sinh với nhau.Bên cạnh đó, tác động từ phương pháp giáo dục có thể có ảnh hưởng hăng hái hoặc bị động đến nhận thức của học trò, nên chi việc chọn lọc hình thức xử phạt một cách hợp lý và khoa học là quan yếu.
CN Y tế Công cộng LÊ HUỲNH NHƯ